Tên di sản : Đình Khánh Vượng
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 3988/QĐ-UBND
Giới thiệu
Kiến trúc cũ:
Trước đây ở phía trước đình là cổng Nghinh môn, có kiến trúc một gian hai chái gần như hình vuông, mỗi bên có kích thước gần 8m chiều dài, được mở ba cửa ra vào, những ngày đại lễ cửa chính mới được mở ra. Trang trí ở cổng nghinh môn là các bức phù điêu đắp bằng vôi vữa gồm long chầu hổ phục, hình chim phượng. Đến năm 1959, nhân dân đã xây lại cổng đình với kiểu kiến trúc khá đơn giản như hiện nay.
Kiến trúc đình chính trước đây được xây dựng theo kiểu hình chữ Đinh (J), gồm tòa Đại đình và Hậu cung. Tòa Đại đình với bộ khung gỗ vẫn bảo tồn gần nguyên trạng như ngày nay, hậu cung đã bị phá. Phía trong là Hậu cung tương ứng với gian giữa Tiền đình có ba cửa đi vào, cửa giữa ít khi mở mà chỉ đi vào bằng hai cửa bên. Ngay chính giữa đặt ba hương án và các đồ tế khí. Ban thờ trên cùng là nơi đặt ngai thờ và bài vị của Thần Hoàng làng, ban thờ giữa là nơi đặt đồ thờ và bát hương, ban thờ ngoài cùng là ban thờ Hội đồng. Tất cả các vật dụng đã bị phá bỏ từ năm 1960.
Quy mô cấu trúc đình hiện nay:
Đình Khánh Vượng có địa thế cảnh quan đẹp, tọa lạc hướng Đông Nam, có kiến trúc hình chữ nhất (-), với những giá trị mỹ thuật độc đáo, là nơi thờ Thành Hoàng làng. Vì thế nó gắn với một không gian mở gần với thiên nhiên, gần với đời. Việc thờ Thành hoàng là một trong những đặc điểm của tín ngưỡng người Việt, đồng thời sự phân bố không gian trong ngôi đình cũng là biểu hiện vừa mang tính tôn giáo, vừa phục vụ nhu cầu sinh hoạt cộng đồng, với không gian kiến trúc dược bố trí như sau:
Cổng đình: Được xây hai cột trụ hình vuông, bằng vôi vữa, trát hồ áo, quét vôi màu trắng. Bên trên và dưới được Soi hai gờ chỉ tạo thành các bát, mặt bát (trên) bên trong cửa ra vào để hèm lắp biển; Đình làng Khánh Vượng. Cửa đình được làm bằng sắt cao 6m, rộng mỗi cánh 0,40m, rất chắc chắn, đóng mở dề dàng.
Sân đình, có kích thước chiều dài 21m8, rộng 18m6, lát gạch bất đỏ kích thước 30 x 30cm, mới được nhân dân trong làng đóng góp kinh phí đã tôn tạo lại năm 2012. Trước đây ở phía Nam sân đình là nhà dải vũ có chiều dài 21m8, rộng 8m nay chỉ còn phần đất.
Tòa Đại đình: Từ cổng qua sân là đến tòa đại đình, được xây trên nền cao hơn mặt sân là 0,05m, xung quang bó vỉa gạch, Tam cấp được lát bằng những viền đá lăn giai rộng 0,45m, dài 0,65m, dày 0,10m chạy dọc hết chiều dài tòa đại đình. Do sân được nâng cao, nên hàng đá Tam cấp này có mặt bằng liền với mặt sân.
Đình được cấu tạo 5 gian, chiều dài của nền đình là 13,5m, chiều rộng là 6,5m. Trước kia đình không dựng tường hiên để thoáng, năm 1959, do nhu cầu của nhân dân lúc này phải có nơi để chứa thóc, cất giữ vũ khí, nên đã xây tường bao kín xung quanh. Đến năm 1984, nhân dân trong làng làm lại hệ thống cửa. Gian thứ nhất và thứ năm xây bịt kín, ba gian giữa là hệ thống cửa hai cánh được làm bằng gỗ tạp (kích thước rộng lm20, cao 1m90, rộng mỗi cánh 0,6m, dày 0,05m), đóng mở dễ dàng.
Kết cấu kích thước các gian tính từ Tây sang Đông như Sau: Gian thứ nhất rộng 2,5m; Gian thứ hai rộng 2,5m; Gian thứ ba rộng 3,5m; Gian thứ tư và gian thứ năm bằng gian thứ nhất và gian thứ hai.
Cấu trúc dọc thân đình gồm bốn hàng chân cột, hại hàng cột cái và hai hàng cột quân, có xây tường trốn cột hiên đỡ kẻ trước.
Từ giọt mái ngói đến hiên trước là 2,5m; Từ bờ hiên trước đến cột quân là 1,35m; Từ tim cột quân trước đến tim cột cái là 1,35m; Từ tim cột cái trước đến tim cột cái sau là 2,9m; Từ tim cột cái sau đến tim cột quân sau là 1,35m; Từ cột quân sau đến tường hậu là 0,90m; Cột cái có chiều cao 3,5m, đường kính 35cm; Cột quân có chiều cao 2,5m, đường kính 25cm; Kích thước chân tảng cột cái 25 x 25 cm; Kích thước chân tảng cột quân là 20 x 20cm.
Như vậy, đình có tổng số 24 cột: 12 cột quân, 12 cột cái, trong đó 2 cột ở gian 1 và gian 5, 2 cột tường hậu và 2 cột quân trước nửa thân cột trốn trong tường gạch. Các cột, xà, câu đầu có sự tương ứng với nhau giữa xà cột hợp lý và hài hòa. Toàn bộ cột được tạo tác theo kiểu thượng thu hạ thách, dựng trên hệ thống chân tảng đá xanh hình vuông, có mặt gương tròn tương xứng với thân cột.
Kết cấu vì kèo: Đình gồm 5 gian, 6 Vì kèo gỗ, mỗi vì 4 cột, có kết cấu cân đối và đối xứng nhau, gồm gian 1 một đối xứng với gian 05; vì 1 đối xứng với vì 6, gian 2 đối xứng với gian 4, vì 2 đối xứng với vì 5, vì 3 đối xứng với vì 2.
Vì 1 và vì 6 có kết cấu kiến trúc giống nhau, theo kiểu thức giá chiêng kẻ chuyền, chồng rường, kẻ hiên trước, bẩy sau. Có nghĩa là hệ thống vì kèo từ đầu cột cái, cột quân, kẻ bẩy, đến thượng lương được kết cấu theo kiểu con so chồng rường kẻ chuyền, trong đó hệ thống các con rường chồng lên nhau nhưng tỉ lệ ngắn và thu hẹp lại dần theo kết cấu mái. Các con rường này đều được đỡ bằng những đấu trụ vuông vắn. Theo thứ tự từ đầu con rường thứ nhất trên vì nóc ăn mộng vào đầu cột cái, đầu con rường thứ hai ăn mộng vào đầu trụ đứng, để nối hai trụ đứng này là một con rường dài nằm ngang ăn mộng vào đấu trụ đỡ hoành tải của hai mái trước và sau còn gọi là rường bụng lợn, phía trên là đấu trụ dọc đỡ thượng lương.
Như vậy, các con rường ngoài chức năng đỡ hoành tải là yếu tố chính trong kết cấu để tạo nên một vì kèo hoàn chỉnh của ngôi đình.
Vì 2 và vì 3, vì 4 và vì 5 có kết cấu kiến trúc giống nhau, hệ thống thể thức giá chiềng kẻ chuyền, kẻ hiên trước, bẩy sau.
Nhìn chung, trên một vì, kết cấu kiến trúc tuân theo một quy luật đăng đối. Tuy nhiên, những phần kiến trúc quan trọng của công trình như hệ thống cột, quá giang, hệ thống trụ đứng, xà lòng, xà nách, kẻ... có tác dụng chịu lực (lực nén trọng lực của mái, lực giằng để liên kết các bộ phận của khung nhà).
Nghệ thuật chạm khắc:
Đình Khánh Vượng có những nét đặc trưng về điêu khắc gỗ, với bàn tay tài hoa, người nghệ nhân sử dụng các đề tài trang trí Tứ linh, Tứ quý và các con vật gần với đời sống thực trên các cấu kiện gỗ của ngôi đình, tạo nên nét đẹp truyền thống về nghệ thuật điêu khắc của người Việt.
Nghệ thuật chạm khắc ở đình chủ yếu tập trung ở 6 vì kèo, kẻ hiên, các con rường, đặc biệt ở phần nóc hai vì l và vì 6 chạm khắc hình Rồng, Long,Ly, Quy, Phượng. Nghệ thuật chạm, nét đục sâu, tạo khối nổi thể hiện tính mềm mại, uyển chuyển.
Các mảng chạm lộng, chạm bong nhiều tầng, nhiều lớp, với nhiều sáng tạo về chủ đề về khối, hình nét, làm cho các hệ thống khung gỗ của đình trở nên lộng lẫy và sinh động với những đề tài về Long, Ly, Quy, Phượng, Tùng, Cúc, Trúc, Mai, trong đó lấy hình tượng rộng làm chủ đạo. Hoa văn vân mây, sen, cúc...làm nền trang trí trên các mảng chạm khắc gỗ ở trên câu đầu, xà hoành, xà nách, bẩy hiên và hai đỉnh nóc của vì hồi.
Hệ thống ở các vì có mảng kiến trúc giống nhau: Xà thuận được chạm khắc rất tỉnh xảo, với đường nét hoa văn vừa mềm mại, với nhiều đề tài phản ánh tâm thức nông nghiệp vừa toát lên được ý tưởng của nghệ nhân xưa.
Các vì chia gian khác, nghệ nhân chú ý phần chạm khắc ở bẩy và lá lật hình tượng các hoa cúc dây trên cấu kiện xà lòng, trụ và con rường.
Mảng chạm kênh “Lưỡng long chầu nguyệt” ở xà hạ giữa hai vì ba và bốn trên phía ban thờ Thành hoàng làng, cho ta thấy được cái tinh xảo của mảng chạm, đường nét mềm mại, hình rồng vờn mây, thân rồng uốn lượn ẩn rất tinh tế trong mây, thể hiện rõ trí tuệ sáng tạo của người nghệ nhân dân gian, đồng thời phản ánh rõ nét những yếu tố kiến trúc thuần Việt.
Mảng chạm lá lật trên hệ thống xà nách vì hồi, các con rường: là hình hoa cúc được chạm khắc rất tỉnh xảo và mềm mại. Bức cốn có hình chân chim phượng, thân rồng, đầu Lân rất độc đáo, đôi chân của con Lân có thể bước vững hùng dũng, bổ sung thêm nội dung nghệ thuật của đình Khánh Vượng. Nét đặc biệt ở ngôi đình là hình tượng rồng chạm khắc ở các bẩy hiên, trên bức ván mê ở đỉnh vì hồi hoặc ở trên xà nách là phong phú nhất. Có ba loại hình tượng rồng như: Nhóm chạm khắc theo kiểu chạm nổi, nửa tượng, nửa phù điêu, thân rồng uốn từ 3 - 5 khúc, mình có phủ vân mây hoặc chạm khắc theo mét tinh tế với kết cấu như một bức phù điêu phủ kín cả kẻ bẩy và ván rong đỡ hoành mái và nhóm phong cách chạm hình có khối nổi cao; phần đầu rồng thoát ly hẳn với mặt phẳng kiến trúc 0,02m và được gá ghép vào kết cấu kiến trúc toàn bộ bức chạm kiểu này nôi cao phủ kín cả một diện tích nhất định của bức phù điêu ở đỉnh vì hồi. Nét khác biệt của ngôi đình này so với các ngôi đình khác là các hình tứ linh, tú quý ở kẻ hiên, thông thường ở các ngôi đình khác quay ra, nhưng tại đình Khánh Vượng, tẩt cả đều được chạm thể quay mặt vào Long đình, đây cũng là một hiện tượng ít gặp trong kiến trúc truyền thống của người Việt.
Các hình tượng linh thú khác được chạm khắc điển hình là Lân, chim phượng, rùa, cá chép, thường được thể hiện tỉ mỉ của nghệ nhân qua các nét chạm tài hoa trên “bẩy”, các vì chia gian 2, 3, 4, 5. Con Lân là con vật đã đi vào huyền thoại trong bộ linh vật của người Việt, tượng trưng cho tốc độ, sự tinh anh. Hình Lân đẹp nhất là bức chạm trên bẩy hiên của đình.
Ngoài ra, trên các bẩy hiên, vì nách có nhiều hình chim phượng chạm khắc cách điệu văn hoa một phần hay nhiều bộ phận tại kẻ bẩy ở các gian 3, gian 5 có hình chim phượng dáng đang chạy hai cánh giang bay, đầu hướng ngước lên cao.
Thông qua hệ thống chạm khắc trên đình Khánh Vượng, các đồ án đều rất phong phú, sinh động ghi nhận tài năng, tình cảm của nghệ nhân dân gian đương thời. Quan sát thực tế về các mảng điều khắc, chúng ta thấy đình Khánh Vượng mang phong cách kiến trúc thuần Việt do một hiệp thợ có kinh nghiệm thực hiện với kiểu thức phong cách kiến trúc nửa đầu thế kỷ XIX như lạc khoản trên thượng lương đã ghi.
Hệ thống thờ tự:
Ở gian giữa của đình là nơi thờ Thành Hoàng làng (Nguyễn Văn Ba). Tất cả các đồ thờ được đặt lên một hương án bằng gỗ dài 1,9m, rộng 1,25m, cao 1,45m, màu sơn son thếp vàng, bốn chân thế vững chắc, trang trí hình rồng chầu hoa văn cách điệu. Trên hương án đặt bài vị, bát hương, ống hương, chân mâm bồng, hạc gỗ và một số đồ thờ khác. Phía dưới hương án là đôi hạc đồng cung tiến mới được đưa vào thờ.